TRANG THƠ VĂN CỦA LÍNH
KẺ NỘI THÙ
Lời nói đầu: Bài viết
này đuợc viết cách đây trên 10 năm, đă đăng tải
trên website của Sư Đoàn 9BB/QLVNCH, và mới đây lại
đuợc đăng trong Đặc San Hải Ngoại LONG PHI
của SĐ9BB. Ngay sau khi đặc san được phát hành đă
gây một số phản hồi của độc
giả, đặc biệt là với các vị Tư Lệnh Sư Đoàn c̣n hiện
hữu. Từ đó, do những chi tiết
đuợc cung cấp, nay chúng tôi xin viết lại để đúng với sự
thật và xin đuợc hủy bỏ và vô
hiệu hoá bài viết trước đây.
Biến cố Tháng 4 đen 1975 đă
qua đi gần 41 năm. Nh́n lại quá khứ chúng ta Quân Lực VNCH, rất
đáng tự hào về những chiến
tích trong sự nghiệp bảo vệ quê hương và đồng bào, nhưng
chúng ta cũng không khỏi phải nh́n lại những
sai lầm và thiếu sót . Một trong những sai
lầm tai hại đó là VNCH nói chung trong đó có Quân Lực VNCH, nói riêng đă thiếu
cảnh giác và đề pḥng trong nội bộ để cho kẻ
địch lợi dụng kẽ hở của tự do mà
xâm nhập vào mọi ngơ nghách của chính quyền từ trung ương
xuống đến địa phương,
nằm vùng theo dơi thu thập tin tức, chờ cơ hội, như chúng ta đă thấy
tiết lộ trong các tài liệu và bài
viết sau năm 1975. Một trong những thủ đọan đó
là chúng đă viết và kể lại những sự kiện
sai lạc với các nhân vật có thật để
mập mờ đánh lận con đen, đánh lừa dư luận. Câu
chuyện sau đây là một trong nhiều
tṛ bịp bợm đó.
Trong các
trại tù "cải tạo" của cộng sản thời gian những
năm 1977-78, có lưu hành cuốn sách mang tựa đề "Người
Sĩ Quan Không Trợ " của một bút hiệu với cái
tên Nguyễn Khắc Lê-Kim . Nội dung nói về hoạt động gián
điệp nằm vùng của một tên
VC đội lốt một sĩ quan thuộc Sư Đoàn 9 BB/QLVNCH, đánh cắp những
tài liệu quân sự,chụp h́nh sao lại
rồi chuồn ra ngoài một cách êm thắm và an toàn, qua mặt nhân
viên an ninh Sư đoàn dễ dàng . Dĩ nhiên câu chuyên có thể là giả tưởng
và bịa đặt thêm nhưng tác giả Lê-Kim đă nhắc đến
tên thật của các nhân vật liên hệ,
ví dụ như Chuẩn tướng Lạc, Thiếu tá Ph, Trung Tá Ch, Đại Tá Q,
Đại Úy T...Thật hư ra sao v́ đơn
vị đă không c̣n nên không có ai kiểm chứng . Tuy nhiên nh́n lại
quá khứ và căn cứ vào những sự kiện đă xảy ra, chúng ta
có thể khẳng định rằng quả thật
vào thời kỳ ấy miền Nam VNCH, có những kẻ nằm
vùng ăn cơm Quốc Gia thờ ma CS, gây náo loạn nhiễu nhương
cho cho công cuộc trị an, trật tự
xă hội miền Nam. Có những tên núp dưới chiêu bài tổ chức này nọ hoặc
đội lốt tôn giáo và chúng đă
chỉ xuất đầu lộ diện khi VNCH đă hoàn toàn sụp đổ
. Trước nhất chúng ta tự hỏi tác giả
Nguyễn Khắc Lê-Kim là ai mà biết rành rẽ về nội
t́nh Sư Đoàn . Dĩ nhiên tác giả chưa hẳn là người
sĩ quan không trợ trong chuyện nhưng
có thể nào là người nằm trong bộ tham mưu Sư đoàn nằm
ở đâu các pḥng ban hoặc đơn vị cơ
hữu trực thuộc? Đây là câu hỏi và nay nhờ qua các vị
sỹ quan đă từng bị đi tù trong nhà tù CS sau năm 1975
đă có đuợc câu trả lời.
Sự thực là như thế này: Trong nhà tù CS, tất cả mọi người đều
bị chúng viết cái gọi là kiểm
điểm tự nêu ra các việc làm của chính ḿnh trong quá khứ mà chúng
gọi là tội lỗi với "cách mạng". Mặt khác, c̣n phải nói về các
vị chỉ huy của ḿnh, dĩ nhiên cũng phải kể tội,
moi cái xấu ra chớ không được nói tốt.
Không có cũng phải nói cho có và đặc biệt là các sĩ quan cao cấp
từng nắm nhiều chức vụ
chỉ huy quan trọng th́ phải biết nhiều về nội t́nh đơn
vị và các "xếp lớn" của ḿnh. Sau đó chúng
thu thập các bài viết này đem về trung uơong hay đâu
đó khai thác rồi giao cho các tên bồi bút dựa vào đó vẽ vời
ra thêu dệt chi tiết thêm mắm thêm muối, xào xáo lại, dựng đứng
câu chuyện tạo thêm những hư
cấu cứ như là thiệt khiến nguời đọc rơi vào tṛng
của chúng không phân biệt đâu là phải trái, cho đó
là đúng. Chính v́ thế trong hoàn cảnh này,Người Sĩ Quan
Không Trợ đă ra đời.
Xin nói rơ hơn thế nào là một
nguời Sĩ quan không trợ, để giúp những ai không là dân nhà binh hiểu thêm .
Trong Trung Tâm Hành Quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn thuờng có một
Sĩ Quan Đại diện Không Quân bên
cạnh Sư Đoàn để lo phần không yểm, tức những liên lạc trực
tiếp với bên Không quân để xin những
phi tuần oanh tạc, đổ quân , soi sáng hoặc tản
thuơng theo nhu cầu của bộ binh . Nguời Sĩ quan này thuờng
được gọi là Sĩ quan liên
lạc không quân nhưng không phải là sĩ quan không trợ. Trong khi đó, Trung
Tâm Hành Quân Sư Đoàn có nhiều ban, mà ban không trợ là một. Sĩ quan, HSQ
phục vụ trong ban không trợ là quân số cơ hữu bộ
binh của sư đoàn .Người Sĩ quan
không trợ được bịa đặt trong tác phẩm của Nguyễn
Khắc Lê-Kim, là nguời sĩ quan nằm
trong ban không trợ này . Tác giả lại c̣n đặt điều
thêm ra khoe khoang chính y đă lợi dụng cái vỏ sĩ quan
để qua mặt và đánh lừa nhân viên
trực gác an ninh của Sư đoàn . Tài liệu hắn ta đánh cắp lấy trộm
được và sao chụp lại bằng
chính máy móc của đơn vị là tài liệu không ảnh liên quan
đến các vùng hành quân cũng như hoạ đồ căn
cứ quân sự của VNCH. Nguyễn
Khắc Lê Kim ngoài sáng tác trên c̣n viết
nhiều bài báo khác đăng trong các tờ báo Quân Đội của
CS, với các câu chuyện hoàn toàn sai lạc nhằm bêu riếu chế
nhạo, các tuớng lănh QLVNCH một cách tài t́nh như chính hắn
là nguời trong cuộc, đó là quyển sách mang tên "Chân Dung Tướng
Ngụy" theo những tài liệu mà chúng đă moi được
theo cách vừa nói ở trên .
Để kết luận, nay xin nói lại,
không có một tên sĩ quan không trợ nào cả, nằm vùng trong Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn 9BB/QLVNCH, mà chẳng qua chỉ là một câu
chuyện hư cấu và hoang tưởng đuợc nặn
lên theo đầu óc méo mó di truyền của chúng với chủ
đích triệt hạ uy tín của QLVNCH cũng như tuyên truyền
cho chúng. Dù vậy chúng ta vẫn phải cảnh giác và cảnh giác,
dù trong bất cứ lúc nào, trong mọi hoàn cảnh và ngay tại
bây giờ tại hải ngoại để đừng rơi vào mê hồn trận
của chúng. Đến lúc nhận ra th́ đă
quá muộn màng.
VỀ
MỘT CÂY VIẾT CỦA SƯ ĐOÀN 9 BỘ BINH
Một buồi trưa nọ tại hậu
cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh ở Vĩnh
Long, đang trong giờ làm việc, tôi được điện thoại từ ngoài cổng
chính cho biết
có người đến thăm. Tôi chạy xe ra th́ khách là môt người lạ trong bộ
quân phục c̣n
ít dấu vết hành quân nhưng vẫn tươm tất
cũng
mang phù hiệu Sư Đoàn 9, Trung đoàn 14,
với hai hoa mai đen và bảng tên Thiện trên túi áo. Anh chào tay tôi và
tự giới thiệu là Văn Lệ Thiên. Tôi mừng rỡ
bắt tay anh và chợt nhớ ra ra đây là người bạn học cùng trường Vơ
Tánh Nha
Trang gần mười năm về trước chỉ nghe tên chớ chưa hề biết
mặt th́ bây giờ lại
cùng chung đơn vị mà cả hai đều ở xa chốn cũ trường xưa.Nhớ
lại vào niên khoá
1964-1965, trên đặc san của trường Vơ Tánh có đăng truyện ngắn của
một học sinh
trúng giải nhất môn văn toàn trường với bút hiệu Văn Lệ Thiên. Tôi không
nhớ
truyện ngắn ấy có tựa đề ǵ nhưng tên tác giả th́ ở măi trong đầu
tôi và có người
bạn cho biết tên thật của Văn Lệ Thiên là Lê Văn Thiện, một cách đổi
chữ thật
tài t́nh. Cho đến gần mười năm sau trong một dịp t́nh cờ nhật tu
hồ sơ các Sĩ
Quan Đại Đội phó CTCT của Sư Đoàn, tôi t́m thấy
trung uư Lê Văn Thiện ở một đơn vị bộ binh nọ bấy lâu nay
cùng chung số
9 với ḿnh mà không hay. Tôi lấy KBC và viết lá thư ngắn cho Thiện và chẳng bao
lâu sau, được hồi âm của Thiện từ một vùng hành quân nào đó. Tôi biết
đơn vị của
Thiện có hậu cứ tại Vĩnh B́nh nhưng Trung Đoàn hành quân liên miên, chẳng mấy
khi về hậu cứ. Vậy mà hôm nay Thiện đă t́m đến gặp tôi thật quả
là bất ngờ. Người
Sĩ Quan có giọng nói và cách phát âm đặc biệt của người vùng bắc Khánh
Hoà quen
thuộc khiến tôi biết ngay không phải lầm người. Đến giờ ăn
trưa, tôi mời Thiện
lên câu lạc bộ sĩ quan ăn bữa cơm thường, nói chuyện đời nay
đời xưa và chuyện
Nha Trang (sao hồi đó lại không rủ nhau ra phố làm một trận nhậu như những
thằng
bạn khác nhỉ?). Qua cách nói chuyện, chứng tỏ anh tính t́nh cởi mở tự nhiên
và
dù là dân tác chiến nhưng phát ngôn rất đàng hoàng lịch sự. Chia tay nhau lần ấy,
chúng tôi không có dịp gặp lại. Anh về đơn vị, sau đó có gửi cho tôi một
bài viết
với tựa đề Trống Vắng, giọng văn nhẹ nhàng tự nhiên uyên bác chứng
tỏ tác giả đọc
và biết nhiều điều mà tôi không biết. Nội dung bài viết tôi không nhớ rơ lắm,
nhưng không quên cuối bài có câu: “sáng như tơ và chiều đă như mơ”,
Tôi chưa kịp
làm ǵ với bài viết đó th́ thảm hoạ tháng 4/75 ập đến. Về Nha Trang thăm
gia
đ́nh cha mẹ và các em rồi bị đánh lừa gọi đi “học tập, mang
theo lương thực mười
ngày” tại Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, Dục Mỹ, Ninh Hoà! Trong một cuộc
“biên
chế” tức là thay đổi lại chỗ ở, sắp xếp lại số tù với
mục đích không cho tù
nhân, bắt liên lạc làm thân với nhau để mưu toan này nọ th́ tôi và Thiện lại
ở
chung một nhà, chung đội. Buổi tối, Thiện qua
chiếu tôi ngồi vấn điếu tuốc rê mà chua xót.
Biết nói ǵ với nhau nữa trong
hoàn cảnh này. Nhận ra nhau nh́n nhau đă là khá lắm rồi. Trong đó chúng nó cấm
nói chuyện về quá khứ v́ có quá khứ nào mà không oai hùng nên chúng không ưa.
Tôi không quên dáng người Thiện trung b́nh, có nước da ngâm ngâm, trên đầu chiếc
nón nhựa đi lao động đào giếng, vác củi, cắt tranh lợp nhà…Thiện
vẫn b́nh thường
giản dị, đôi khi chỉ với chiếc áo thun, cái quần trận rách vá bạc màu.
Tôi quên
không hỏi Thiện đă có lập gia đ́nh hay chưa. Tôi không nhớ rơ Thiện được
về từ lúc nào, nhưng có lẽ sớm hơn tôi v́ sau những lần
chuyển trại đến trại sau cùng, tôi không gặp lại Thiện nữa.
Sang hải ngoại, một hôm, lại cũng
vô t́nh đọc được tờ Tin Văn của
anh Trần Hoài Thư, nguyên trước kia cũng có thời phục vụ tại BTL Quân Đoàn
IV,
trong số thư mục thấy có giới thiệu tập truyện Lê Văn Thiện, tôi
gửi email anh
THT xin được mua một quyển nhưng anh cho biết sách không bán và chỉ lấy
cước
phí mà thôi. Anh gửi liền cho tôi một cuốn và tôi đă đọc và t́m thấy trong đó
nhiều h́nh ảnh của miền Nam trước 1975. Tập truyện ngắn Lê Văn Thiện
trước 1975
do Thư Quán Bản Thảo tái ấn hành tại hải ngoại. Sách dày 200 trang giấy trắng,
b́a Nguyễn Trọng Khôi. Đây là tập truyện bao gồm hai tác phẩm được
xuất bản trước
năm 1975 là Một Cách Buồn Phiền và Sao Không Như Ngày Xưa. Môt Cách Buồn
Phiền, tranh b́a Ngọc Dũng, cơ sở VĂN xuất bản tháng 4-1969. Sao Không Như
Ngày
Xưa do Côi Sơn xuất bản 1971.
Văn chương Lê Văn Thiện cũng
b́nh thường như lối sống của anh.
B́nh thường từ những chuyện rất b́nh thường xảy ra xung quanh như
cuộc sống mùa
màng ở vùng quê, đám tang người chết, tập tục thói quen, mê tín dị đoan…cho
đến
những cuộc ăn nhậu,liên hoan của lính tráng sau cuộc hành quân, những trận
chiến
gay go căng thẳng trên chiến trường và ngay cả những chuyện t́nh mây gió nam
nữ
cũng với giọng văn b́nh thản không gay cấn đại ngôn hoặc lâm ly nhằm
câu độc giả.
Như nói về người vợ trẻ tội nghiệp có chồng chết trận mới
bốn tháng đưa mắt liếc
t́nh với anh lính láng giềng sát vách trong trại gia binh: “
Nó liếc mắt đưa t́nh với tao. Bố cha nó chớ! Hai con mắt thiệt điến
thiệt ăn mày” Và rồi anh láng giềng đă dối vợ đi gác, để
đêm đến qua nhà
người thiếu phụ goá chồng mà “ nghe rơ tiếng con cười, tiếng vợ lịch kịch
nấu nướng trong bếp” bên kia vách “ (Quán Vắng, SKNNX).
Chỉ có thế và chỉ có thế. Và đây
một đoạn khác rất ư là tự nhiên
mà tôi nghĩ là tuyệt bút của LVT:”Tôi vặn
thật nhỏ ngọn đèn rồi đi ra ngoài,xuống sân. Tôi nghe tiếng chân Ngự nhẹ
nhàng
về hướng lu nước. Nhanh hơn, tôi tới giựt lấy chiếc gáo, đem
móc lên cao. Không
hiểu Ngự loay hoay thế nào, nhưng sau đó th́ bị tôi ôm được vai. Ngự
run lên
trong bóng tối… Tôi chợt nhớ tới nụ cười thật đẹp của
Ngự lúc ban ngày. Vội
vàng tôi hôn lên nơi làm ra nụ cười đó. Một tay ṿng sau lưng, tôi bấu chặt
bên
hông phải. Ngự nói như hơi thở: Chúng nó sẽ cười anh…anh Trạng”
(Một lối Tiện Lợi.
MCBP).
Trong mười lăm truyện ngắn của
tập truyện Lê Văn Thiện, kết cấu
khác nhau, không chuyện nào giống chuyện nào, dó là đặc điểm của LVT. Có chuyện
c̣n phảng phất đâu đó vài kín đáo nói về sự dồn nén của người
lính trận trong
những cuộc hành quân dài đầy gian khổ chờ đến khi được về
dưỡng quân có dịp xả
hơi nhưng cũng rất hiếm hoi hoạ hoằn. Viết về chiến tranh và những
trận chiến nảy
lửa trên chiến trường. LVT cũng rất ít khoe koang lớn lối, mặc dù anh
là dân
tác chiến thứ thiệt, lặn lội trên khắp các chiến trường từ miền
Trung núi non
hiểm trở xuống đến vùng śnh lầy, phèn vàng ngập nước Miền Tây, qua tận chiến trường xứ Chùa Tháp xa
xôi, trải qua không biết bao nhiêu trận đánh lớn nhỏ suốt mười năm
trời, nhưng
khi hỏi về đời lính có khổ không anh chỉ trả lời: “Khổ lắm. Nhưng không có ǵ đáng nói. Ai cũng khổ cả…Họ sao ḿnh
vậy”.
Sau chiến thắng, người lính được
ăn mừng,liên hoan. Dĩ nhiên, có
rượu, có văn nghệ, có tuyên dương…Đang cuộc vui nhưng sao lại
nhớ đến những
phút giây hiểm nguy đă qua v́ không cứu được đồng đội mà ân hận:
“ Đạn trúng cổ nhưng Khắc không chết. Một
người từ sau chạy vụt tới, lách vào nép sát bên Thới, thở và nói: Làm sao
anh…không khéo chúng nó bắn thêm th́ chết…kéo nó vào nhưng Thới chỉ biết mở
to
mắt. Làm sao đây. Bọn địch nằm trên lầu cao canh sẵn quá gần, mà đường
th́ quá
rộng trống trải, Khắc, ḿnh thân nhau lắm”… Ḿnh không cứu được
Khắc, nhưng
phút ấy trí óc ḿnh đen kịt, không nghĩ được một kế nhỏ như anh
bạn đă nghĩ.
Ḿnh đi đánh nhau đă lâu, đụng trận khá nhiều, một việc như thế
lại chẳng làm nổi.
Khắc chết. (Trong Lớp Khói Màu, SKNNX)
Một đoạn khác Trong Lớp Khói Màu:” Dăy ghế bên kia ngả ngớn ba bốn người gân cổ lên triết lư…Làm
chó ǵ
có số mạng. Cái số nào dành cho trăm rưởi thằng cộng sản cùng chết
một lúc…Rồi
chúng ta…Ai dám bảo các chị đàn bà và lũ con nít ở giữa phố bên kia lại
chết
trước bọn ḿnh, lại chết v́ bom đạn. Có đứa như ta đây xông pha
mười năm vẫn
yên lành, lại có đứa mới ra trường nười ngày đă ngoẻo, đền
nợ nước một cách hấp
tấp như sợ người ta dành mất…Vậy là sao? Như bữa đó, cả
trung đội bang qua đường
trót lọt, tới phiên thằng Khắc th́ lại bị…Nó ngă cái rật trước
mũi tao chớ xa
ǵ đâu. Ông Thới chạy trước nó, tao chạy sau chẳng hề ǵ… Vậy nó
không tới số
th́ là mẹ ǵ hở? (TLKM, trang 123-124).
Hiện Lê Văn Thiện c̣n kẹt lại quê
nhà làm ruộng, cuốc đất trồng
khoai như những ngày trong trại tù. Nghe nói anh vẫn sáng tác nhưng không rơ
anh viết những ǵ và viết ra sao. Nhưng đó là một khía cạnh khác. Ở đây
chỉ nhắc
về anh như một người bạn tù, một đồng môn, nột chiến hữu
trước và sau ngày quốc
nạn. C̣n hiện giờ ng̣i viết anh có được như xưa th́ xin để độc
giả nhận xét.
Mái tóc xanh ngày xưa nay đă gần bạc. Sức đă cùng, lực đă kiệt, dâu biển
cũng
nhiều. “Sớm như mơ và chiều đă như tơ”.
NGUYỄN
PHÙNG - PVN
Phụ Chú: Vài
hàng về
tác giả Lê văn Thiện: Sinh ngày 10 tháng 5 năm 1947 tại Vạn Giả, Khánh Hoà. Học
trường Trung Học Vơ Tánh Nha Trang. Giải nhất bộ môn văn trường Vơ Tánh
1964 với
bút hiệu Văn Lệ Thiên. T́nh nguyện nhập ngũ sớm. Tốt nghiệp trường
Sĩ Quan Trừ
Bị Thủ Đức. Từng lặn lội trên khắp chiến trường từ Quân
Khu 2xuống đến vùng đồng
bằng Cửu Long. Hiện làm ruộng tại quê nhà Vạn Giă.
… Cơi văn
chương của
Thiện là lằn ranh giữa sống và chết, là tiếng súng bắn tỉa, những đợt
hành
quân, những trận tấn công, giải vây, tháo chạy, cảnh lộn xộn, nhếch
nhác nơi miền
quê nghèo… (Nguyễn Lệ Uyên, trích b́a sau Lê Văn Thiện, Truyện Ngắn.Thư Quán
Bản
Thảo 2010).
CÁI C̉
Viết để kính tặng và tri ân: các bà
mẹ, các chị một thời gian nan, vất vả
nuôi con, nuôi chồng "cải tạo” và cái c̣ nhà
tôi . NP
Trong
ngày thứ hai của chương tŕnh Hội Ngộ của các cựu tù cải tạo tại
hội trường của Special Event Center, Dallas, Texas, rộng lớn mênh mông với ba ngàn
chỗ ngồi đă hầu như không c̣n trống bao nhiêu đều im lặng khi nghe tiêng
hát Băng Tâm cất lên bài Cái C̣ cuả nữ nhạc sĩ Nguyệt Ánh. Băng Tâm với
dáng người thanh thanh nhỏ nhắn nhưng giọng hát cuả cô đă hoàn toàn gây cho khán
giả một cảm xúc bàng hoàng đến ray rứt. Đâu đó có nhiều tiếng thổn
thức bùi ngùi dấy lên v́ cảm động.
Cái C̣ lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Thương em dạ sắt ḷng son
Một thân đơn chiếc nuôi con thay chồng
.....
Cái C̣ lặn lội bờ ao
Bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con
...
Biển dâu đă hoá ruộng đồng
Nhà tan cửa nát vợ chồng chia ly
Chồng đi cải tạo không về
Giờ đi tay cấy tay cầy đất hoang
Trong hàng khán giả có đến một nửa là các chị, các bà, vợ
của những cựu tù cải tạo. Họ chính là những Cái C̣ trong bài hát mà người
nhạc sĩ sáng tác và người ca sĩ tŕnh diễn đă nói thay cho họ. Nếu không
có một tấm ḷng và nếu không nằm trong hoàn cảnh đoạ đày đó chắc
người sáng tác và người tŕnh diễn khó có thể diễn tả được nỗi ḷng của ḿnh như vậy (Được biết chị
Nguyệt Ánh có thân phụ là một Sĩ quan cao cấp của
QLVNCH và Băng Tâm cũng thuộc gia đ́nh H.O).
Con C̣ là một biểu tượng hiền lành, rất gần gũi và thân
mật với người Việt Nam, đă được nhân
cách hoá trong ca dao và văn chương:
Cái c̣ , cái vạc, cái nông
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cỏ
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái Vạc nó ngờ cho tôi
....
C̣ không phá hoại mùa màng, nên người nông dân cũng không xua đuổi
c̣. Ngay loài động vật như con trâu cũng để cho c̣ đậu trên lưng ḿnh
b́nh thản trong khi trâu làm lụng hay nghỉ ngơi. Ở miền Tây có những cánh đồng
ruộng bao la, người ta gọi là c̣ bay thẳng cánh. Ở Sadec, trước năm 1975,
có một khu rừng tràm nổi tiếng, tập trung cả hàng ngàn hàng
vạn con c̣, nhưng người ta coi như khu di tích cần bảo vệ động vật
và không ai quấy phá bắn giết.
Có một lần trong trại tù cải tạo khi đi "lao động" nhân
nói chuyện phiếm cho quên nỗi nặng nhọc, có anh đă đọc mấy câu ca dao:
Cái C̣ mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống
ao
Ông ơi ông vớt tôi vào
Tôi có ḷng nào, ông hăy xáo măng
Có xáo th́ xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau ḷng c̣
con
Anh em cứ cho rằng đó là một bài ca dao b́nh thường, nhưng có
một anh bạn xưa nay nổi tiếng là "ù lỳ" "chay lười lao động" bỗng
lên tiếng:
- Tụi mày có biết tại sao mà con c̣ lại đ̣i sau khi chết th́ nấu
xáo c̣ bằng nước trong không?
Không ai trả lời được dù trong đó có vị từng là giáo sư
biệt phái và tốt nghiệp đại học.
Và
rồi anh ta giải thích:
- C̣ là loại động vật kiếm ăn ban ngày, không bao giờ ăn
đêm cả Cái C̣ đi ăn đêm là ngụ ư làm một
chuyện ǵ đó không quang minh chính đại, đường hoàng. Khi bị phát giác bại
lộ sợ rằng xấu hổ với c̣ con nên đă xin được một ân huệ
trước khi chết là nấu xáo với nước trong.
Nghe xong ai nấy đều khen rằng anh bạn lao động chay lười
kia lâu nay từng làm anh em phiền hà liên lụy không ít quả là có "chiều sâu" tư tưởng
.
Xă hội Việt Nam
từ ngàn xưa, C̣ là biểu tượng cho người vợ tần tảo nuôi chồng
nuôi con khi chồng vắng nhà hay gặp hoàn cảnh hoạn nạn đường cùng:
Cái c̣ lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ
non
Nàng ơi ở lại nuôi con
Để anh đi (học) nước non Cao Bằng
Cao Bằng xa lắm anh ơi
Bà Tú Xương là một mẫu người đàn bà Việt Nam thuần tuư, không những nuôi chồng ăn học mà c̣n
nuôi cả một đàn con:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi nổi năm con với một chồng
Lặn lội thân C̉ khi quăng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đ̣ đông
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Nhà thơ Vị Xuyên tuy tự trào chửi ḿnh
nhưng đă đề cao vợ thật hóm hỉnh và cũng không kém phần dí dỏm tế
nhị vậy. Bà Tú tuy vất vả nuôi chồng ăn học và một đàn con nhưng
không hề than thở, mà c̣n coi đó như một vinh dự, một bổn phận cần
phải làm . Chắc rằng bà đă không mơ tưởng rằng có ngày mà "ngưa anh đi
trước vơng nàng theo sau".
Có lẽ v́ thế mà nhạc sĩ Nguyệt Ánh đă cho rằng cái c̣ ngày
xưa như bà Tú Xương đă trở thành dĩ văng chăng? Dù vậy, tấm gương
bà Tú vẫn là tấm gương ngàn đời cho các c̣ hậu thế noi theo. Cái c̣ ngày nay không chỉ xách gạo thăm chồng cải tạo mà c̣n bán giọt
máu đào nuôi con v́ nhà cửa không c̣n, bị đuổi lên
nơi núi rừng hoang dă, cẵn cỗi sỏi đá, mệnh danh là vùng kinh tế mới để
cuốc đất trồng khoai. Cái c̣ đang ở tuổi xuân th́, chưa biết khổ
đau là ǵ bỗng dưng bị vất vào một cuộc sống tối tăm u ám, đầy
bất trắc cạm bẫy chỉ v́ có chồng hy sinh v́ chính nghĩa quốc gia, bảo
vệ đất nước đồng bào đừng rơi vào ách nô lệ của loài cộng
đỏ. Cái c̣ không những lo cho con mà c̣n lo cho cả bà mẹ chồng rời xa làng quê cũ
nơi chôn nhau cắt rún để đi vào vùng chướng khí lam sơn không hẹn ngày trỏ
lại. Cái c̣ nào c̣n may mắn bám trụ được ỏ chốn thị thành th́ cũng
không khá ǵ hơn v́ phải hàng năm đi làm “nghĩa vụ lao động” vét cống
đào đường dưới gió giá rét lạnh căm.
Có nhũng cái c̣ lặn lội thăm chồng đă bỏ xác dọc đường v́ đường
xá quá xa xôi thiếu thốn phương tiện mọi bề từ
Nam ra Bắc, đến tận
vùng đèo heo hút gió gian nan. Cũng không thiếu những cái c̣ dù không kiệt sức giữa
đường nhưng khi đến được nơi thăm chồng th́ chồng đă
c̣n đâu v́:
Chồng em chết giữ ngục tù
Khổ đau đói rét cộng thù giết anh
Để
rồi:
Cái c̣ một thân lên vùng đất lạ
đến trại tù tóc vấn vành tang
đếm từng mộ hoang máu lệ hai hàng
Đau xót cho chồng không mộ phần không khói không nhang
Có thể
khi đọc những gịng này, người đọc chưa thâm cám được nỗi
ḷng của thân phận cái c̣ nhưng nếu không tin xin cứ
t́m nghe Băng Tâm hát th́ sẽ thấy được những ǵ mà người viết bài
này chưa thể diễn tả hết được. Người nhạc sĩ sáng tác đă
hay và người ca sĩ tŕnh bày c̣n tuyệt vời hơn nữa. Điều đó nói lên
rằng, một bản nhạc nếu không có người
ca sĩ chuyển đạt dùm, nói hết nỗi ḷng của ḿnh th́ bài hát cũng khó được
quần chúng đón nhận.
Ngày nay, nơi xứ người hay trong nước vẫn c̣n những cái
c̣ tiếp tục hy sinh,. Có những cái c̣ vẫn c̣n kẹt lại vùng “kinh tê’ mới”
từ đó đến nay v́ không c̣n nhà cửa để về, hoặc có trốn về được
th́ cũng lang thang hè phố, tiếp tục bán máu nuôi thân hoặc nuôi chồng phế binh thương
tật. Tối về sống dưới gầm cầu hay túp lều giấy bên đống
rác, bến xe….Ở hải ngoại, `Có những cái c̣ vẫn đi cày hai jobs để
trả tiền nhà và tiền bills, cũng thức khuya dậy sớm
như xưa. Có cái c̣ vẫn c̣n tiếp tục lo lắng chăm sóc cho chồng trong t́nh cảnh đau yếu bệnh tật v́ những đ̣n thù hoặc do
ảnh hưởng những năm tháng dài trong trại tù cải tạo. Đó là những
cái c̣ chưa được nghỉ ngơi để tận hưởng ân huệ cuả
đời sống nơi xứ người tự do dù với phương tiện vật
chất dồi dào .
Nếu không có thảm hoạ 30 tháng 4, có thể đă không có bài hát Cái C̣ này
bởi v́ đă không có những trại tù dựng lên ở khắp cả ba miền Nam Bắc.
Tuy nhiên, người phu nữ Việt Nam dù ở hoàn cảnh nào th́ cũng vẫn là những
cái c̣ ở một vị trí khác, tuy không nắm giữ riềng mối quốc gia, nhưng thế nào cũng làm rạng rỡ non song Nước Việt,
không hổ danh con Hồng cháu Lạc cùng những anh hùng liệt nữ ngàn xưa.
Nguyễn Phùng
NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN ĐƯỜNG THI
Tôi
có người bạn từ thuở học sinh bốn chục năm về trước,
nguyên tốt nghiệp Văn khoa và Đại Học Sư phạm Việt Nam Cộng Hoà,
nguyên giáo sư việt văn một số trường trung học công lập miền Nam
trước 1975. Bây giờ đă nghỉ hưu, mới đây nhân dịp đầu Xuân đă
gửi e-mail cho tôi mấy bài thơ Đường kèm bài dịch của anh. Tôi xin đưa
lên đây với vài cảm nghĩ mọn để cùng qúi vị gọi là thưởng thức
chút xuân muộn và cũng để nhớ về quê nhà với những kỷ niệm xưa
dù Xuân Về nhưng quê hương vẫn ch́m trong bóng đêm mịt mùng. Trước nhất
là bài Xuân Vọng của Đỗ phủ:
XUÂN
VỌNG (ĐỖ PHỦ)
Quốc
phá, sơn hà tại
Thành
xuân thảo mộc thâm
Cảm
thời hoa tiễn lệ
Hận
biệt điểu kinh tâm
NGÓNG XUÂN (bản
dịch)
Sông núi c̣n
đây nước mất rồi
Bên thành xuân
đến cỏ xanh tuơi
Hoa rơi
giọt lệ thuơng thời thế
Chim
biệt đuờng bay hận ngút trời
Đây
là bài tôi cảm nhất và lần đầu tiên được biết v́ nó hợp với
tâm trạng của chúng ta, những người ly hương và mất nước:
Quốc phá, sơn hà tại
Nước
mất nhưng giang sơn vẫn c̣n đây, dù bè lũ Cộng nô đang tâm bán một phần
đất biên giới phía bắc và dâng một phần hải đảo cho quan thày Tàu cộng,
đất nước có bị thu hẹp đi, sau này lịch sử sẽ kết tội
trạng của chúng, nhưng toàn giang sơn sông núi h́nh chữ S vẫn c̣n đây khi xuân về
hoa vẫn nở, cây cỏ vẫn xanh tươi. Thế nhưng, trong cái xanh tươi ấy
như có vẻ giả tạo v́ thời thế oan khiên, ḷng người không phục, nên vẫn
hàm chứa niềm uất hận ngấm ngầm, mong sao có ngày đất nước được
giải thoát khỏi nanh vuốt của bọn qủy đỏ vô thần th́ dẫu tận
nơi cuối trời kia mới giải được mối thâm thù.
BẠC TẦ
N HOÀI (ĐỖ MỤC)
Yên
lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ
bạc Tần Hoài cận tửu gia.
.
Thương
nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do
xướng Hậu Đ́nh Hoa.
THUYỀN ĐẬU BẾN TẦN HOÀI (bản dịch)
Khói vờn
mặt nước cát trăng pha
Thuyền
đậu bến Tần cạnh tửu gia
Thương
nữ biết chi hờn mất nước
Bên
sông hát khúc Hậu Đ́nh Hoa.
BẾN TẦN
HOÀI
(Phùng Nguyên dịch)
Khói vờn
nước lạnh trăng sa
Thuyền
ai đậu cạnh tửu gia bến Tần
Hỡi người
thương nữ bên sông
Đ́nh
Hoa c̣n hát quên hờn quốc vong
.
Về
bài Bạc Tần Hoài, tôi có kỷ niệm hồi c̣n trong trại tù cải tạo của cộng
sản, sau 1975. Không biết ở đâu mà chúng tôi có được bài này và bài Hoàng Hạc
lâu. Bài HHL th́ quá nổi tiếng từ lâu c̣n bài Bạc Tần Hoài th́ mới biết lần
ấy là lần đầu. Tôi chép vào một tập vở học tṛ giấy tương đối
tốt của thời XHCN, lại có cả nguyên bản chữ Hán, nhưng không có bản dịch.
Khi tôi đọc câu "Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa" cho anh bạn Dư Duy Hinh nghe th́ hắn
vỗ tay đánh chát và khen là tuyệt vời, có nghĩa là chúng tôi cũng hiểu được
nghĩa là khói th́ phủ trên mặt sông lạnh, c̣n băi cát bên bờ th́ nằm yên dưới
ánh trăng, đó là câu tả cảnh như vẽ bức tranh thuỷ mạc. Câu thứ nh́
th́ b́nh thường cũng hiểu được. Câu thứ ba chúng tôi tự hỏi không
biết "thương nữ" là nghĩa ǵ, có người hiểu theo nghĩa đen là thương
cho người con gái đă không biết cái nhục mất nước, nhưng có người
lại nói thương nữ là người con gái buôn bán bên sông, bán ǵ vào lúc nửa đêm?
V́ vốn liếng chữ hán chúng tôi không bao nhiêu nên cứ chấp nhận cả hai, nghĩa
nào cũng được. Để rơ hơn, xin dẫn hai bài dịch, một của Trần
Trọng San và một của Mộng Sơn (?). Trần Trọng San dịch chữ thương
nữ ra "cô gái", c̣n Mộng Sơn dịch là "Gái đêm", có phải ám chỉ các ca nhi hay là gái
ăn sương? nhưng Mộng Sơn dịch bất tri vong
quốc hận ra quên sóng khuynh thành, e sai hết cả ư
trong nguyên tác. C̣n câu chót th́ rơ nghĩa rồi, chỉ có điển Hậu Đ́nh Hoa từ
đâu th́ hồi đó không rơ, chỉ đoán đó là một
bài hát có lời ủy mị yếu đuối hoăc ăn chơi thôi chăng? (Tần Hoài: tên con sông từ tỉnh Giang Tô chảy lên phía Bắc vào sông Trường
Giang. Hậu Đ́nh Hoa: Tên khúc hát làm trong buổi tiệc của
vua Trần Hậu Chủ và Trương Qúi Phi thời Nam Bắc Triều). (Chú thích của
Trần Trọng San trong Đường Thi)
Thuyền
đậu sông Tần Hoài
(Trần Trọng
San dịch)
Khói trùm nước
lạnh trăng lồng cát
Thuyền
đậu Tần Hoài cạnh tửu gia
Cô gái không
hay buồn nước mất
Bên sông c̣n
hát Hậu Đ́nh Hoa
Đỗ
Bến Sông Hoài
(Bản dịch
Mộng Sơn)
Mây mặt
nước, nguyệt đầu ghềnh,
Bến Tần
vui chuốc chén quỳnh đêm thanh
Gái "đêm"
quên sóng khuynh thành
Bên sông hát
khúc Hậu Đ́nh Hoa chơi!
Có
một lần vào buổi tối, tôi đứng trong hàng rào trại, nh́n qua phía bên kia sông có
toán văn nghệ đang tập dượt trống đàn có chen lẫn lời ca tiếng
hát vọng sang lan trên gịng suối bên hông trại, rồi hỏi anh bạn D Nh:
- Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu Đ́nh
Hoa là ǵ? Nh chỉ qua bên sông chỗ nhà của ban văn nghệ đang tập dượt,
cười cười trả lời:
- Là như vậy đó
Bài ĐỀ TÍCH SỞ KIẾN XỨ và bài Hoàng
Hạc Lâu th́ quá quen thuộc rồi. Về điển tích th́ qúi vị đă biết, khỏi
nhắc lại cho dài ḍng. Cụ Nguyễn Du đă mượn ư này viết trong Truyện Kiều,
khi Kim Trọng trở về vườn cũ t́m Thuư Kiều nhưng người xưa nay
đâu c̣n nữa:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái c̣n cười gió đông
Trong
các bài dịch về Hoàng Hạc Lâu, theo thiển ư, bài dịch của Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu là tuyệt vời nhất. Hai câu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn ḷng ai
Âm điệu
như một bài ca dao mượt mà nhưng cũng năo ḷng người viễn xứ ly hương.
ĐỀ TÍCH SỞ KIẾN XỨ (THÔI HỘ)
Khứ
niên kim nhật thử môn trung
Nhân
diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân
diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa
y cựu tiếu đông phong.
ĐỀ
THƠ CHỖ NĂM TRƯỚC (bản dịch)
Năm xưa,
cửa ấy, xuân qua
Mặt ai
cùng với đào hoa ửng hồng
Bây giờ
đào quyện gió đông
Nguời
xưa biền biệt, biết trông phương nào.
H̉ANG HẠC
LÂU (THÔI HIỆU)
Tích nhân dữ
thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa
không dư Ḥang Hạc lâu
Hoàng
hạc nhất khứ phục phản
Bạch
vân thiên tải không du du .
T́nh xuyên lịch
lịch Hán Dương thụ
Phuơng
thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật
mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang
thượng sử nhân sầu
LẦU HOÀNG HẠC (bản dịch)
Người
xưa cỡi hạc vàng bay mất
C̣n lại
nơi nầy một gác trơ
Hoàng hạc
một đi không trở lại
Mây trắng
ngàn năm đợi ngẩn ngơ
Sông trong soi
bóng cây vằng vặc
Băi thắm
xanh dày cỏ mởn tơ
Chiều xuống
quê nhà đâu chẳng thâ’y
Trên
sông khói sóng dạ bơ thờ
LẦU HOÀNG HẠC. (Tản Đà dịch)
Người
xưa cưỡi hạc bay đâu
Mà nay Hoàng
Hạc trên lầu c̣n trơ
Hạc vàng
bay đă xa mờ
Ngàn năm
mây trắng bây giờ c̣n bay
Hán Dương
sông tạnh cây bầy
Băi xưa
Anh Vũ phơi đầy cỏ non
Quê hương
khuất bóng Hoàng hôn
Trên sông khói
sóng cho buồn ḷng ai
(Lầu Hoàng Hạc nằm trên ghềnh đá Hoàng Hạc, huyện Vũ Xương,
tỉnh Hồ Bắc.
Băi Anh Vũ thuộc bắc ngạn sông Trường Giang gần
thành Hán Dương, phía Tây Nam
huyện Vũ Xương).
Nói về Đường thi mà không nói về
Việt thi th́ cũng quả thiếu sót. Nói đến Tản Đà, nói về hoa đào không
thể không nói đến bài Tống Biệt của ông. Đây là bài thơ tự do có lẽ
lâu hơn cả mấy bài thơ tư do thời tiền chiến của cụ Phan Khôi, dù
Tản Đà chuyên về thơ lục bát. Hồi xưa đi học việt văn, không
ai là khỏi học bài này nhưng đa số các bản viết đều dùng chữ HOA
nhưng cũng có những bản dùng chữ HUÊ trong câu: Nước
chảy hoa trôi. Ai đúng? Ai sai? Nhưng chắc chắn câu Ngàn
năm thơ thân bỏng GIĂNG chơi là đúng v́ Tản Đà là người Bắc,
mà người Bắc th́ hay dùng chữ giăng hơn (ông giăng xuống chơi với cháu)
TỐNG BIỆT
Tản Đà
Lá đào rơi
rắc chốn thiên thai
Suối tiễn,
oanh đưa những ngậm ngùi
Nửa năm
tiên cảnh
Một bước
trần ai
Ước
cũ duyên thừa có thế thôi
Đá ṃn rêu
nhạt
Nước
chảy huê trôi
Cái hạc
bay lên vút tận trời
Cửa động
Đầu
non
Đường
lối cũ
Ngàn năm
thơ thẩn bóng giăng chơi
Bài
thơ thứ hai là bài Ôg Đồ của Vũ Đ́nh Liên. Ông là ai bây giờ ỏ đâu,
nhưng cứ mỗi năm Tết đến Xuân về, người ta lại nhắc đến
ông với bài thơ bất hủ đó. Ông có phải là một ông đồ xưa không? Không phải đến thời ông, h́nh ảnh ông đồ mới
mờ nhạt mà ngay từ thời cụ Tú Xương đă than thở:
Cái học nhà nho đă hỏng rồi
Mười người đi học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi
Thầy
Khoá hay anh Khoá là h́nh ảnh ông đồ xưa vậy. Hồi tôi lên năm lên sáu, cũng cắp
sách đến nhà ông thầy đồ trong làng để học chữ quốc ngữ do
ông đồ khăn đóng áo dài dạy. Ông ngồi trên sập gụ, có cái điếu thuốc
lào với cái xe điếu bằng tre có mắt. Ông đánh học tṛ bằng cái xe điếu
th́ chỉ là quắn đít và qùi xơ mít khô nên đứa nào cũng sợ. Nhà ông không có bàn
ghế ǵ cả, cứ ḅ ra chiếu vừa học vừa viết mà thôi. Tôi không nhớ học
ông trong bao nhiêu lâu nhưng chắc thời gian ngắn thôi và không biết có học được
chữ nào nhưng cái xe điếu tre có mắt th́ thế nào tôi cũng có lănh ít hèo.
Ở
Washngton DC và Virginia,
năm nào tháng giêng nhằm ngày mồng một Tết trời cũng lạnh và c̣n đổ
tuyết nữa. Riêng năm nay, năm Đinh Hợi th́ lại càng lạnh hơn. Trận
tuyết tuần trước chưa tan c̣n đóng băng khắp mọi nơi. Dù vậy,
người Việt quốc gia vùng Hoa Thịnh Đốn vẫn tổ chức thượng
kỳ hàng năm như thường lệ tại trung tâm EDen.
Người ta nói đây là trung tâm thương mại, nhưng hơn thế nữa đây
là một trung tâm văn hoá của người Việt tỵ nạn. Hai ngọn kỳ đài
VNCH và HK sừng sững giữa khu đậu xe và kiến trúc Eden
với cửa tam quan mang đặc thù đông phương cũng như mặt tiền thương
xá là mô h́nh phỏng theo chợ Bến Thành của Sài g̣n. Đi dạo trong khu thương xá,
ta có cái cảm tưởng đi dạo trên đường phố Lê Lợi ngày nào. Có đến
có ra Eden ngày Tết mới thấy không khí Tết
nơi xứ người tỵ nạn v́ người bản xứ đâu có ăn tết
như chúng ta. Ở Eden cũng có múa lân chiêng
trống rầm trời như ở Saig̣n, Chợ lớn với những tràng pháo dài lê thê
từ trần nhà tḥng xuống dất mấy ṿng, khói pháo nồng thơm cay mắt, xác pháo
đỏ hồng bay ngập vỉa hè trước cửa mỗi gian hàng.
ÔNG
ĐỒ
Vũ Đ́nh
Liên
Mỗi năm
hoa đào nở
Lại thấy
ông đồ xưa
Bày mực
tàu giấy đỏ
Bên phố
đông người qua
Bao nhiêu người
thuê viết
Tấm tắc
ngơi khen tài
Hoa tay thảo
những nét
Như phượng
múa rồng bay
Nhưng mỗi
năm mỗi vắng
Người
thuê viết nay đâu
Giấy đỏ
buồn không thắm
Mực đọng
trong nghiên sầu
Ông đồ
vẫn c̣n đó
Qua đường
không ai hay
Lá vàng rơi
trên giấy
Ngoài đường
mưa bụi bay
Năm nay
đào lại nở
Không thấy
ông đồ xưa
Những người
muôn năm cũ
Hồn
bây giờ ỏ đâu
Nhưng
năm nay có phải v́ thời tiết hay v́ lư do nào mà lễ thượng kỳ đầu
năm đă không được đông đảo như các năm trước. Không những
đồng bào đă vắng mà số cựu quân nhân c̣n vắng hơn. Chẳng lẽ h́nh
ảnh người lính cũ cũng đến như h́nh ảnh ông đồ xưa đă
mất đi trong ḷng người? hay là nhân t́nh thế thái đă quên họ để họ
ngồi bên đường lê tâ'm thân tàn nơi quê nhà mà người qua đường không
ai hay và h́nh ảnh người lính già nơi quê người bây giờ đến một lúc
nào đó thân phận chẳng lẽ lại cũng như ông đồ xưa?
NP
|